CASE chính là C với connected (kết nối), A với autonomous (tự lái), S với shared (chia sẻ) và E với electrified (điện khí hóa). CASE được kỳ vọng sẽ định hình lại đáng kể chiếc ô tô của nhân loại.
Và bây giờ, năm 2020 đã đến, các công nghệ CASE thực sự bắt đầu định hình lại mối quan hệ giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng, và cách các nhà sản xuất ô tô phát triển phương tiện và mô hình kinh doanh mà họ vận hành. Nhưng vào đầu những năm 2020, ngành công nghiệp ô tô không chỉ phải đối mặt với tác động của CASE mà sẽ còn có những thay đổi cơ bản hơn nhiều.
Một sự thức tỉnh … buồn
Doanh số xe hạng nhẹ (light vehicle – LV) trên toàn cầu đã giảm hơn 4% năm 2019. Thực trạng này khẳng định một nỗi lo về sự suy giảm đáng kể trên thị trường xe hơi thế giới, bắt đầu vào năm 2018, sau tám năm liền tăng trưởng.
Thực tế này được xem là một sự thức tỉnh buồn sau một thời gian dài tăng trưởng, ngành công nghiệp ô tô bước vào thập kỷ mới, gánh nặng đè lên các quy định, chính sách và hành vi thay đổi của người tiêu dùng liên quan đến CASE và những tái cấu trúc liên quan mà các nhà sản xuất ô tô và nhà cung cấp phải thực hiện nếu muốn duy trì lợi nhuận và sống còn trên thương trường.
Nói về doanh số bán xe, gần 3/4 sự sụt giảm của thị trường toàn cầu năm 2019 có thể được quy do sự yếu kém ở thị trường châu Á, nhu cầu tiêu dùng đặc biệt giảm mạnh ở Trung Quốc và Ấn Độ.
Mặc dù doanh số LV toàn cầu năm 2019 chỉ đạt 88,99 triệu đơn vị và những thách thức vẫn còn phía trước, Jonathan Storey, tác giả báo cáo Automotive World đã đưa ra một số quan điểm lạc quan cho sự tăng trưởng chậm trong ngành công nghiệp toàn cầu vào năm 2020. Ông thừa nhận khả năng sụt giảm ở Đông Âu, Trung Á và NAFTA, nhưng dự báo sẽ có sự gia tăng nhỏ ở Châu Phi, Châu Á, EU + EFTA, Trung Đông và Nam Mỹ, từ đó dẫn đến sự tăng trưởng nhẹ trong thị trường LV toàn cầu.
Hàng ngàn việc làm bị cắt giảm…
Theo Essen, Trung tâm nghiên cứu ô tô (CAR) có trụ sở tại Đức, mặc dù xu hướng di động điện tử có thể tạo ra 109.000 việc làm mới vào năm 2030, nhưng nó cũng có thể dẫn đến mất 234.000 việc làm tại các nhà cung cấp và nhà sản xuất ô tô trong cùng một khung thời gian.
Trong năm 2019, tin tức về việc cắt giảm việc làm trở nên dày và nhanh. Tập đoàn Volkswagen công bố vào tháng 3/2019 rằng thương hiệu VW sẽ cắt giảm tới 7.000 việc làm do sáng kiến nhằm tăng năng suất và mang lại khoản tiết kiệm hàng năm là 5,9 tỷ euro (6,7 tỷ đô la Mỹ) vào năm 2023. Audi cho biết vào tháng 11 họ sẽ cắt giảm 9.500 công việc hiện tại vào năm 2025, không đáng kể so với 2.000 vị trí mới trong lĩnh vực kỹ thuật số và di động điện tử.
BMW có thể cắt giảm đến 6.000 việc làm vào năm 2022, cùng lúc đó đó Daimler sẽ cắt giảm 1.100 vị trí. Ngoài ra, Daimler có kế hoạch giảm 10.000 nhân viên tổng thể, bao gồm cắt giảm 10% bộ phận quản lý trên toàn cầu.
Vào tháng 6/2019, Ford xác nhận kế hoạch cắt giảm 12.000 việc làm ở châu Âu vào cuối năm 2020, trong đó 2.000 người đã nhận được thông báo về việc cắt giảm. Và trong năm 2018 và 2019, GM đã công bố tổng cộng 19.000 lần cắt giảm việc làm và đóng cửa nhà máy, giảm 25% vị trí điều hành. Tất cả các động thái được coi là cần thiết để bảo đảm tương lai của công ty.
Cắt giảm nhân lực tại các nhà sản xuất ô tô có hiệu ứng domino, và các nhà cung cấp lớn cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Brose tuyên bố vào tháng 10 rằng họ sẽ cắt giảm 2.000 việc làm ở Đức trong ba năm. Đến cuối năm 2022, Robert Bosch sẽ cắt giảm 3.500 việc làm ở Đức và các báo cáo vào tháng 1/2020 cho thấy công ty sẽ cắt giảm khoảng 2.000 việc làm ở Ấn Độ, nơi các nhà sản xuất ô tô dự kiến sẽ có hàng chục nghìn lao động dư thừa.
CASE sẽ là xu hướng của kỷ nguyên mới?
Trong hầu hết mọi thông báo, xu hướng điện khí hóa và thậm chí là CASE chính là nguyên nhân. Rõ ràng, điện khí hóa và rộng hơn là CASE sẽ có tác động đáng kể đến các nhà sản xuất và nhà cung cấp ô tô, như Michael Manley, Giám đốc điều hành của FCA và Chủ tịch Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô châu Âu (ACEA) thừa nhận, trong một tuyên bố vào tháng 1/2020: thời điểm ngành công nghiệp đang ồ ạt đầu tư vào các phương tiện không phát thải, một định dạng thị trường mới được thiết lập không chỉ ở EU mà còn trên toàn cầu.
Không thể phủ nhận rằng thập kỷ tới sẽ chứng kiến sự chuyển đổi của ngành công nghiệp ô tô, từ sự thống trị của động cơ đốt sang điện khí hóa. Nhưng liệu CASE hoặc thậm chí chỉ điện khí hóa có thể là lý do cho tất cả những cắt giảm công việc này?
CASE là một trong bốn yếu tố riêng biệt nhưng chồng chéo đằng sau các thông báo, trong đó đầu tiên là sự suy thoái chung của ngành dẫn đến doanh số xe ô tô giảm vào năm 2019 sau khi đạt đỉnh cao hai năm trước.
Thứ hai là áp lực biên, trong đó các nhà sản xuất ô tô không có khả năng chịu đựng mới đối với các hoạt động kém hiệu quả liên tiếp, đây cũng là một sự phản ánh suy thoái. Yếu tố thứ ba là tái cấu trúc ngành công nghiệp nói chung rất cần thiết vào thời điểm kịp thời, cụ thể là bắt đầu một thập kỷ mới; và thứ tư là sự chuẩn bị của ngành công nghiệp ô tô với CASE, và cụ thể là điện khí hóa.
Bức tranh thương trường
Việc hàng chục ngàn lao động bị cắt giảm trong ngành công nghiệp ô tô toàn cầu đã vẽ lên một bức tranh đen tối, cho thấy thời kỳ khó khăn phía trước không chỉ đối với các nhà sản xuất ô tô và nhà cung cấp, mà cụ thể là các cá nhân bị ảnh hưởng.
Tuy nhiên, tất cả chúng ta đều biết ngành công nghiệp ô tô là một ngành theo chu kỳ. Ngành công nghiệp đã tận hưởng phần tốt nhất của một thập kỷ tăng trưởng và đã tăng đáng kể số lượng việc làm. Nên nhớ việc làm trong ngành ô tô đã tăng trưởng liên tục trong hầu hết mười năm qua. Việc làm tại Đức đã tăng 16,8% tương đương 120.000 người kể từ năm 2010 và năm 2019 chứng kiến ngành công nghiệp ô tô Đức có mức độ tuyển dụng cao nhất kể từ năm 1991. Tại Mỹ, ngành công nghiệp ô tô cũng đã chứng kiến sự gia tăng 49% tương đương 327.000 người kể từ năm 2009.
Trong năm 2009, cuộc khủng hoảng tín dụng đã buộc các nhà sản xuất ô tô phải thực hiện các biện pháp cắt giảm ngay lập tức và mạnh tay. Một thập kỷ sau, ngành công nghiệp theo chu kỳ phải đối mặt với sự suy thoái và sự bất ổn trước những thay đổi công nghệ, những gì đang xảy ra bây giờ là CASE: cắt giảm việc làm trong suốt những năm 2020 cho thấy các nhà sản xuất ô tô đã xem xét cẩn thận và thấy rằng đó là điều cần thiết phải làm.