Sự di chuyển của người hoặc hàng hóa từ điểm A đến điểm B là lý do tại sao các phương tiện giao thông đường bộ được phát minh. Và đương nhiên sự an toàn khi đi từ A đến B là yếu tố cốt lõi được quan tâm.
Lái xe nên tuân thủ luật giao thông dường bộ và nên tôn trọng năng lực, chuẩn mực cũng nhưh tập quán xã hội của con người. Và khi xảy ra sự cố, chiếc xe sẽ cung cấp khả năng bảo vệ khi va chạm.
Do đó, không có gì ngạc nhiên khi các nhà nghiên cứu đã phân tích sự an toàn của xe tự lái. Đối với các xe AV hiện có, một đánh giá năm 2020 về số liệu thống kê tai nạn của các nhà nghiên cứu tại Đại học Belgrade đã báo cáo tỷ lệ va chạm giữa người đi bộ đối với các phương tiện do con người điều khiển đã giảm, nhưng tỷ lệ va chạm từ phía sau lại tăng.
Họ cho rằng các phương tiện do con người điều khiển thường đi quá gần hoặc ở tốc độ không an toàn. Do đó, trình điều khiển của con người đôi khi va chạm với AV.
Một phân tích năm 2020 của các nhà nghiên cứu của Viện Bảo hiểm An toàn Đường cao tốc Mỹ (IIHS) về hơn 5.000 mục cơ sở dữ liệu của NHTSA cho thấy rằng, xe AV khó có thể tránh được nhiều vụ va chạm hiện tại.
Nhiều nguyên nhân là do hỏng hóc cơ học như nổ lốp hoặc gãy trục, điều này không có gì khác với AV. Và những nguyên nhân như mất khả năng hoặc cảm nhận hoặc nhận thức nơi AV có thể tỏ ra vượt trội so với con người chỉ chiếm 23% số vụ tai nạn. AV dường như không thể tránh được hơn 1/3 số sự cố trong cơ sở dữ liệu NHTSA.
Những phát hiện như vậy gợi ý một câu hỏi vẫn chưa được trả lời thuyết phục đó là: Có thể về giới hạn tốc độ thấp đối với AV?
Trong nhiều vụ tai nạn trên đường, người lái xe nhận thức được sự cố hoặc lỗi cơ học trong một vài giây trước khi va chạm.
Thường có một số nỗ lực đánh lái ra khỏi điểm va chạm và làm chậm phương tiện thông qua phanh. Thay vào đó, một lỗi nghiêm trọng trong hệ thống lập kế hoạch hoặc hệ thống điều khiển của AV có khả năng dẫn đến một vụ tai nạn có đặc điểm là ít hoặc không chuyển hướng hoặc phanh trước thời điểm va chạm. Những va chạm như vậy có khả năng sẽ rất tàn khốc.
Trong bất kỳ vụ va chạm nào, động lượng của xe được đưa từ giá trị ban đầu về không. Và vì động lượng vật lý tỷ lệ thuận với tích khối lượng nhân với bình phương vận tốc, nên động lượng cần giữ lại tăng theo bình phương vận tốc.
Sự gia tăng nhỏ về vận tốc dẫn đến sự gia tăng lớn về động lượng cần giữ lại, dẫn đến sự gia tăng lớn về lực liên quan và sự gia tăng lớn về số lượng cũng như mức độ nghiêm trọng của vết thương.
Nhiều nghiên cứu đã điều tra các chấn thương của hành khách do va chạm trực diện, va chạm bên hông, lật xe và các động lực khác. Và một số cũng đã điều tra thương tích của người đi xe máy, người đi xe đạp và người đi bộ.
Trong mọi trường hợp, cả tỷ lệ mức độ nghiêm trọng của thương tích đều tăng theo tốc độ của xe tại thời điểm va chạm. Thương tích và mức độ nghiêm trọng không lớn đối với tốc độ lên tới khoảng 20 km/h đối với tác động của người đi bộ và 30 km/h đối với tác động của xe cộ, nhưng các đường cong thống kê tăng nhanh từ các ngưỡng đó trở đi.
Với tính chất vật lý, có vẻ không quá khó hiểu khi đặt câu hỏi liệu AV có cần giới hạn tốc độ thấp hay không.
Chế độ lái tự động của máy bay được hưởng lợi từ các sai số do không gian trống xung quanh máy bay. Nhưng AV lại hoàn toàn khác khi có thể chịu tác động gần như ngay lập tức do không gian trống tối đa là vài centimet hoặc vài mét.
Biên độ sai số đối với các phương tiện giao thông đường bộ luôn nhỏ và đã giảm dần khi các phương tiện tăng kích thước trong khi đường bộ thì không. Do đó, câu hỏi dành cho các nhà lập pháp cần giải quyết đó là: Bạn sẽ cho phép tốc độ tối đa nào đối với AV? Đây sẽ là câu hỏi rất quan trọng khi các phương tiện tự lái được đưa vào triển khai trong tương lai ở nhiều nơi trên thế giới.