Các nhà sản xuất ô tô trên thế giới đang đặt một chân vững chắc vào bàn đạp tăng tốc chuyển đổi của họ, được thúc đẩy bởi sự cạnh tranh từ các công ty công nghệ cao như Google và Apple. Khả năng kết nối trong nhà máy và đường cao tốc cũng đang đổi mới cách chế tạo phương tiện cũng như cách người lái xe tương tác với ô tô của họ.
Intellias Inc. dự đoán rằng chỉ riêng doanh thu từ các dịch vụ di động kỹ thuật số sẽ đạt hơn 1,2 nghìn tỷ USD vào năm 2030, trong khi doanh số bán ô tô trên toàn thế giới sẽ thực sự bắt đầu giảm trong cùng một thập kỷ.
Gần 45% giám đốc điều hành ô tô trong một cuộc khảo sát KMPG năm 2018 tin rằng chủ sở hữu ô tô ngày nay sẽ không còn muốn sở hữu phương tiện cá nhân vào năm 2025.
Các quan chức ngành giao thông vận tải ở Vương quốc Anh ước tính rằng kể từ giữa những năm 1990, số lượng nam giới trong độ tuổi 17-20 có bằng lái xe đã giảm từ hơn 50% xuống dưới 30%. Một xu hướng tương tự cũng đang diễn ra ở Mỹ, nơi số thanh niên 16 tuổi nộp đơn xin giấy phép lái xe đã giảm từ hơn 50% vào giữa những năm 1980 xuống còn khoảng 16% hiện nay.
Công nghệ kỹ thuật số đứng đằng sau phần lớn sự thay đổi đó. Các xu hướng giao thông bao gồm kết nối, xe điện (EV), dịch vụ di chuyển tự hành và sản xuất thông minh.
Trên thực tế, xe điện có thể chiếm hơn một nửa số xe mới bán ra vào năm 2030. Sự tăng trưởng sẽ được thúc đẩy bởi sự kết hợp của việc giảm chi phí pin, công nghệ pin mới, cơ sở hạ tầng sạc được cải thiện, các quy định và ưu đãi của chính phủ, cũng như sự chấp nhận của khách hàng ngày càng tăng.
Các quốc gia trên toàn thế giới đang đặt mục tiêu doanh số bán xe điện đầy tham vọng. Châu Âu đã thông qua lệnh cấm bán xe chạy xăng mới bắt đầu từ năm 2035. Đến cuối năm 2022, xe điện và xe hybrid chiếm 43% doanh số bán xe mới trong khu vực.
Vương quốc Anh có kế hoạch chi hơn 1 tỷ USD cho cơ sở hạ tầng EV, hơn 7,5 tỷ USD đã được phân bổ ở Mỹ và Liên minh châu Âu đã cam kết gần 300 triệu USD để thiết lập 5.700 điểm sạc mới cũng như 57 trạm tiếp nhiên liệu hydro.
Ba năm trước, chỉ 12% tổng số xe bán ra được trang bị các tính năng kết nối nhúng đã tạo ra doanh thu 1,5 tỷ USD. Những con số này dự kiến sẽ tăng theo cấp số nhân trong thập kỷ tới.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật số mở rộng nhanh chóng ngày nay cũng đang góp phần vào sự phát triển của các phương tiện tự trị và hỗ trợ sự quan tâm ngày càng tăng của người tiêu dùng đối với dịch vụ chia sẻ xe. Cách đây không lâu, robot taxi được coi là một kịch bản khoa học viễn tưởng xa vời. Mặc dù những lo ngại về an toàn đã phần nào làm giảm sự quan tâm hiện tại đối với xe tự trị, tập đoàn tư vấn Boston dự đoán rằng 25% tổng số km đã đi ở Mỹ có thể là xe điện tự hành, dùng chung vào năm 2030.
Công nghệ kỹ thuật số cũng đang thúc đẩy mọi thứ, từ các dự án “moonshot” có rủi ro cao như giải pháp di chuyển bằng đường hàng không trong đô thị và xe đưa đón hành khách tự lái đến các chương trình cơ bản hơn cho hệ thống quản lý nhiên liệu, cũng như phần mềm quản lý đội xe và bãi đậu xe thông minh.
Ngoài ra, người máy, trí tuệ nhân tạo (AI) và các công nghệ dựa trên dữ liệu khác đang mang lại những thay đổi sâu rộng cho các nhà máy sản xuất trên khắp thế giới.
Những thay đổi trong thói quen làm việc do đại dịch gây ra và các vấn đề gần đây về chuỗi cung ứng đã thúc đẩy việc chuyển sang các quy trình sản xuất dựa trên dữ liệu được hỗ trợ bởi máy học, trí tuệ nhân tạo, mạng nhạy cảm với thời gian và robot cộng tác.
Sudhanshu Gaur, phó chủ tịch kiêm kiến trúc sư trưởng của Hitachi America LTD cho biết: “Chúng ta đang đứng ở đỉnh cao của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư nhờ sự phát triển theo cấp số nhân của công nghệ CNTT. Có một cơ hội tuyệt vời để các nhà sản xuất nắm bắt những thay đổi này và mở ra giá trị kinh doanh lớn hơn đồng thời mang lại sự linh hoạt và khả năng phục hồi cao hơn cho hoạt động của họ”.
Gaur lưu ý rằng gần 140 nhà máy sản xuất của Hitachi Astemo trên khắp thế giới đang được hưởng lợi từ việc tiếp cận với nền tảng và dịch vụ IoT (Internet vạn vật) toàn cầu của Astemo.
Các nền tảng kỹ thuật số có khả năng kết nối tất cả các khía cạnh của hoạt động sản xuất, bao gồm sản xuất, kỹ thuật, chất lượng, hàng tồn kho và quản lý chuỗi cung ứng. Các nền tảng kỹ thuật số mang đến sự linh hoạt bổ sung cho quy trình sản xuất và cho phép các công ty đối phó nhanh hơn với sự gián đoạn do tính không ổn định, không chắc chắn, phức tạp và mơ hồ.
Nhiều nhà máy hoàn toàn tự động hiệu quả hơn, nhưng chúng cũng tiềm ẩn rủi ro vì các hệ thống được liên kết chặt chẽ thường không được thiết kế để xử lý các tình huống khó đoán, phức tạp và sự kiện hiếm hoi. Việc áp dụng dần dần các công nghệ kỹ thuật số tiên tiến mang lại cách tốt nhất để tiến lên phía trước, mang lại khả năng tự động hóa cần thiết khi cần, đồng thời nâng cao kỹ năng cho lực lượng lao động để quản lý và tận dụng các hệ thống phức tạp này.
Việc chuyển đổi sang nền tảng kỹ thuật số trong sản xuất đi kèm với một mức giá, mặc dù các khoản tiết kiệm trong tương lai có thể là đáng kể. Mặc dù chi phí khác nhau tùy thuộc vào vị trí và nhiều yếu tố khác, nhưng chi phí cho một hệ thống dựa trên dữ liệu tại một nhà máy sản xuất cỡ trung bình của Mỹ với 1.000 nhân viên và doanh thu hàng năm là 200 triệu USD có thể tổng cộng là 20.000 USD phí triển khai một lần với hoạt động hàng năm chi phí từ 60.000 USD trở lên.
Chi phí cho một doanh nghiệp toàn cầu lớn hơn nhiều với khoảng 100 nhà máy, 60.000 nhân viên và doanh thu hàng năm là 10 tỷ USD để triển khai một nền tảng kỹ thuật số hoàn toàn có thể lên tới 1 triệu USD trở lên tính phí một lần với hơn 3 triệu USD chi phí vận hành hàng năm.
Việc triển khai thành công các chiến lược sản xuất thông minh liên quan đến các lớp khác nhau của Internet vạn vật công nghiệp, bao gồm điện toán sương mù và trí thông minh biên, cũng như 5G và điện toán đám mây.