Tác động của chủ nghĩa bảo hộ
Tâm lý bảo hộ ngày càng lan rộng trên toàn thế giới có nguy cơ làm gián đoạn chuỗi cung ứng trong ngành ô tô, làm tăng thêm bóng đen về việc các nhà sản xuất ô tô và phụ tùng ô tô. Các thỏa thuận tìm nguồn cung ứng phải được cơ cấu lại hoàn toàn, việc quản lý chuỗi cung ứng càng trở nên phức tạp hơn và chi phí cao hơn.
Thuế quan và các hình thức bảo hộ khác đã trở thành một thực tế trong nhiều thập kỷ và hoàn toàn hợp pháp miễn là các quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được tuân thủ - mục đích của những điều này là để đảm bảo ngành công nghiệp trong nước của mỗi quốc gia không bị ảnh hưởng bởi các nhà nhập khẩu bán hàng hóa vào thị trường của mình dưới mức được coi là giá trị hợp lý.
Ngoài thuế quan chung và thuế chống bán phá giá, sự tồn tại của các rào cản phi thương mại cũng cản trở dòng hàng hóa tự do trên khắp thế giới, làm tăng thêm chi phí, sự phức tạp và thời gian của nhân viên cần thiết cho việc quản lý chuỗi cung ứng.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Mao Ning hồi đầu năm 2024 cho biết các biện pháp bảo hộ thương mại mà Mỹ và châu Âu thực hiện sẽ gây tổn hại cho sự phát triển lâu dài của chính họ cũng như cản trở sự tiến bộ và thịnh vượng của thế giới. Đặc biệt khi Mỹ công bố việc đang xem xét hạn chế nhập khẩu ô tô thông minh của Trung Quốc và các linh kiện liên quan bằng các biện pháp phi thuế quan. EU đã mở cuộc điều tra chống trợ cấp đối với việc nhập khẩu ô tô điện từ Trung Quốc.
Bà Ning nói rằng phân công lao động và hợp tác cùng có lợi là những đặc điểm nổi bật của chuỗi công nghiệp ô tô: “Sự phát triển nhảy vọt của ngành công nghiệp ô tô Trung Quốc đã cung cấp cho thế giới những sản phẩm hiệu quả về chi phí với chất lượng cao. Cứ ba chiếc ô tô xuất khẩu từ Trung Quốc thì có một chiếc là ô tô điện. Các biện pháp bảo hộ thương mại mà các nước liên quan áp dụng chống lại Bắc Kinh, như Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã chỉ ra, nhằm biến các hoạt động thương mại bình thường thành các vấn đề an ninh và ý thức hệ, xây dựng “sân nhỏ có hàng rào cao” dưới danh nghĩa “giảm rủi ro””.
Theo Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Trung Quốc, đã có tổng cộng có 443.000 xe đã được xuất khẩu. Cụ thể, khoảng 369.000 xe chở khách đã được xuất khẩu, tăng 47,5% so với cùng kỳ năm trước, trong khi xuất khẩu xe thương mại tăng 46,9% so với cùng kỳ năm ngoái lên 74.000 chiếc. Tháng 4/2024, xuất khẩu xe năng lượng mới (NEV) của Trung Quốc cũng tăng 21,7% so với cùng kỳ năm trước lên 101.000 chiếc.
Trong bối cảnh thị trường cạnh tranh khốc liệt, hiện tại, các nhà sản xuất ô tô Trung Quốc đã vươn lên dẫn đầu ở một số phân khúc chủ chốt và sự trỗi dậy của họ được hỗ trợ bởi các mẫu xe NEV đang giành được thị phần trong và ngoài nước. Có lẽ không có gì ngạc nhiên khi sự thành công trong việc mở rộng thị trường ra nước ngoài của các doanh nghiệp Trung Quốc đã khiến họ trở thành mục tiêu của chủ nghĩa bảo hộ thương mại, khiến một số người dân địa phương coi hàng nhập khẩu của Trung Quốc là mối đe dọa đối với ngành ô tô địa phương. Điều tồi tệ hơn là vào thời điểm việc áp dụng trợ cấp công nghiệp ở Mỹ đã đẩy nhanh đáng kể sự cạnh tranh toàn cầu, giới tinh hoa chính trị Mỹ đã đưa lý thuyết “mối đe dọa Trung Quốc” đến cực đoan, cố gắng thuyết phục các nước châu Âu “tách rời” khỏi Trung Quốc.
Các nhà hoạch định chính sách châu Âu đánh giá nên duy trì sự tỉnh táo mang tính chiến lược. Một khi các nước châu Âu theo đuổi chủ nghĩa bảo hộ thương mại bằng cách tăng thuế nhập khẩu và các rào cản phi thuế quan đối với xe điện do Trung Quốc sản xuất, chắc chắn điều đó sẽ ảnh hưởng đến các nhà sản xuất ô tô Trung Quốc, nhưng về lâu dài, chủ nghĩa bảo hộ cuối cùng sẽ phản tác dụng và hạn chế sự phát triển của chính họ trong lĩnh vực ô tô.
Trung Quốc là thị trường ô tô lớn nhất thế giới tính theo cả doanh số hàng năm và sản lượng sản xuất, trong đó nhiều nhà sản xuất ô tô châu Âu coi quốc gia này là thị trường nước ngoài và cơ sở sản xuất quan trọng. Những người đề xuất tăng thuế đối với xe điện do Trung Quốc sản xuất đang chơi một trò chơi nguy hiểm bằng cách cố gắng tạo ra xung đột giữa các nước châu Âu và Trung Quốc, nơi doanh số bán xe điện tăng đang hỗ trợ hiệu quả hoạt động toàn cầu của các công ty châu Âu. Nếu tranh chấp thương mại gây ra tình thế thua thiệt cho cả nhà sản xuất ô tô Trung Quốc và châu Âu, người chiến thắng cuối cùng sẽ là các công ty xe điện của Mỹ.
Chủ nghĩa bảo hộ leo thang ở châu Âu trong những năm gần đây đã gây khó khăn ngày càng lớn cho các doanh nghiệp do Trung Quốc tài trợ khi đầu tư và hoạt động trên thị trường. Theo báo cáo về môi trường kinh doanh tại EU do Hội đồng Xúc tiến Thương mại Quốc tế Trung Quốc công bố vào tháng 3, 33,04% các công ty được phỏng vấn tin rằng môi trường kinh doanh tại EU đã xấu đi, tăng 5,86 điểm phần trăm so với năm ngoái.
Hợp tác luôn là cách hữu hiệu để thúc đẩy sự phát triển. Việc Trung Quốc dẫn đầu thế giới trong lĩnh vực năng lượng mới với thị trường khổng lồ, năng lực sản xuất chi phí thấp và công nghệ tiên tiến xác định EU không thể từ bỏ hợp tác với Trung Quốc. Nhu cầu của EU nhằm tăng tốc quá trình chuyển đổi năng lượng, khôi phục ngành công nghiệp ô tô và những lợi thế to lớn của Trung Quốc trong các ngành liên quan vẫn thể hiện tiềm năng lớn cho hợp tác Trung Quốc-EU.
Mẫu thuẫn của 3 thị trường lớn nhất thế giới
Để thu hút các công ty Trung Quốc mở rộng đầu tư, châu Âu cần cung cấp một môi trường kinh doanh công bằng và cởi mở. Sự sẵn sàng đầu tư vào châu Âu của các công ty Trung Quốc vẫn ở mức cao mặc dù môi trường kinh doanh tại EU đang suy giảm. Dòng đầu tư của các công ty Trung Quốc vào EU đạt 7 tỷ USD vào năm 2022 và tổng vốn đầu tư đạt 102,9 tỷ USD.
Cả Trung Quốc và EU đều nên đáp lại sự nhiệt tình đầu tư ngày càng tăng của các công ty. Trong bối cảnh Mỹ thúc đẩy “tách rời”, nếu Trung Quốc và EU có thể chống lại sự can thiệp từ bên ngoài và đẩy nhanh việc phê chuẩn và thực thi Hiệp định toàn diện về đầu tư (CAI) Trung Quốc-EU thì đó sẽ là tín hiệu tốt cho cả hai nền kinh tế. Nếu CAI được thông qua và thực thi, 40,87% doanh nghiệp do Trung Quốc tài trợ được khảo sát sẽ tăng cường đầu tư vào thị trường EU.
Ngành công nghiệp ô tô là trục truyền thống của nền kinh tế EU. Ngành công nghiệp NEV đang phát triển nhanh chóng đóng một vai trò quan trọng cho cả tăng trưởng kinh tế trong tương lai và chuyển đổi năng lượng trên toàn thế giới. thực tế, việc tăng cường hợp tác với Trung Quốc trong lĩnh vực này là phù hợp với lợi ích của EU. Giới quan sát cho rằng, nếu EU từ bỏ chủ nghĩa đơn phương và chủ nghĩa bảo hộ thương mại trong lĩnh vực này, tăng cường hợp tác thiết thực với Trung Quốc, cùng thúc đẩy tiến bộ công nghệ của cả hai bên trong lĩnh vực NEV và cùng thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh toàn cầu.
Quá trình chuyển đổi năng lượng và hợp tác sâu sắc hơn với Trung Quốc đều là quỹ đạo không thể tránh khỏi đối với EU. Tăng cường hợp tác với lĩnh vực NEV của Trung Quốc và thu hút đầu tư từ các công ty Trung Quốc có lợi cho sự phát triển của ngành NEV châu Âu. Chủ nghĩa bảo hộ chỉ có thể cản trở sự phát triển của ngành năng lượng mới châu Âu. EU cần có quyết tâm để không rơi vào bẫy “tách rời” đẩy và bảo hộ của Mỹ.
Đối với thị trường Mỹ, thực tế, sự thúc đẩy gần đây của chính phủ Mỹ nhằm điều chỉnh các yêu cầu về chuỗi cung ứng trong nước đối với xe điện làm nổi bật cách tiếp cận chính sách thiển cận và có khả năng gây tác dụng ngược. Trong khi nhằm hạn chế sự thống trị của Trung Quốc trong các ngành công nghiệp chiến lược, các biện pháp bảo hộ này sẽ cản trở đáng kể khả năng cạnh tranh của Mỹ trong lĩnh vực then chốt này và làm trầm trọng thêm những thách thức đang diễn ra. Một chiến lược hợp tác tận dụng thế mạnh của cả hai nền kinh tế sẽ phục vụ lợi ích lâu dài tốt hơn chủ nghĩa biệt lập.
Đầu tiên, việc hạn chế hợp tác với các đối tác Trung Quốc sẽ làm giảm nghiêm trọng quy mô và tốc độ mà các nhà sản xuất ô tô Mỹ có thể chuyển đổi sang điện. Họ đang trông cậy vào cơ sở sản xuất quy mô lớn và tiến bộ công nghệ của Trung Quốc để giúp quá trình chuyển đổi nhanh hơn. Tuy nhiên, khả năng tiếp cận hạn chế vào mạng lưới cung ứng toàn cầu với giá cả phải chăng sẽ làm tăng chi phí, làm tổn hại đến lợi nhuận và tăng trưởng năng lực sản xuất. Vào thời điểm việc mở rộng quy mô là rất quan trọng, sự bất lợi tự áp đặt này khiến các nhà sản xuất trong nước tụt hậu so với các đối thủ nước ngoài.
Hơn nữa, lĩnh vực này là một nguồn tạo việc làm quan trọng cho Mỹ. Khi sự hợp tác bị dừng lại, việc gia công và thuê ngoài các bộ phận có thể tăng tốc, điều này có nguy cơ làm suy yếu nền tảng công nghiệp vững chắc của Mỹ, làm trầm trọng thêm các xu hướng phi công nghiệp hóa dài hạn. Ngành công nghiệp trong nước của Mỹ phải đối mặt với sự gián đoạn đáng kể khi các khoản đầu tư hiện tại trở nên lỗi thời hoặc không thể duy trì được. Các công việc sản xuất được trả lương cao sẽ chuyển ra nước ngoài, giáng một đòn kép vào nền kinh tế.
Xây dựng khả năng tự cung tự cấp trong chuỗi cung ứng xe điện ngay từ đầu trong khung thời gian ngắn cũng là điều không thể thực hiện được. Mạng lưới cung ứng toàn cầu phức tạp phải mất nhiều thập kỷ để thiết lập một cách hữu cơ.
Cách tiếp cận thiển cận sẽ che chắn khỏi những khả năng bên ngoài và trì hoãn việc tích lũy sức mạnh cạnh tranh. Sẽ là phi thực tế nếu mong đợi ngành công nghiệp và lực lượng lao động Mỹ có thể tự động tái tạo hiệu quả của các nhà cung cấp nước ngoài. Sự chậm trễ trong việc xây dựng quy mô sản xuất làm suy yếu khả năng cạnh tranh so với các đối thủ phát triển nhanh.
Thay vì cô lập, hợp tác đa phương tối đa hóa lợi ích cho tất cả các bên. Năng lực sản xuất khổng lồ và đầu tư vào đổi mới của Trung Quốc mang lại lợi ích cho người tiêu dùng trên toàn thế giới. Về phần mình, Mỹ mang đến những nghiên cứu, nguồn tài chính tốt nhất và một thị trường rộng lớn. Quan hệ đối tác chiến lược tận dụng các thế mạnh bổ sung có thể giúp đẩy nhanh quá trình chuyển đổi năng lượng toàn cầu. Cả hai nước đều đạt được lợi ích bằng cách hợp tác thiết lập các tiêu chuẩn chung và quy tắc minh bạch để cạnh tranh công bằng.
Giới chuyên gia trong ngành cho rằng có nhiều cách mang tính xây dựng hơn là chiến tranh thương mại và chủ nghĩa bảo hộ. Độc lập chiến lược đòi hỏi nỗ lực chung, không cắt đứt quan hệ cùng có lợi. Một cách tiếp cận cân bằng, có định hướng dài hạn, tích hợp các chính sách thương mại, đầu tư, công nghệ và phát triển lực lượng lao động hứa hẹn sẽ củng cố vị thế của Mỹ hay châu Âu trong các ngành công nghiệp quan trọng trong tương lai. Hợp tác chứ không phải đối đầu với các cường quốc cạnh tranh sẽ phục vụ tốt nhất cho lợi ích kinh tế và môi trường toàn cầu.