Như vậy, với xe ô tô chở người từ 9 chỗ trở xuống (bao gồm cả xe con pick-up- còn gọi là xe bán tải), với mức lệ phí cố định sẽ là 20 triệu đồng/lần ở Hà Nội và TP HCM so với trước đây, mức phí chỉ là 500.000 đồng/lần đối với khu vực I là Hà Nội và TP HCM. Mức tăng này tương đương với 40 lần.
Các khu vực quy định tại Thông tư này được xác định theo địa giới hành chính, cụ thể như sau.
a) Khu vực I gồm: Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh bao gồm tất cả các quận, huyện trực thuộc thành phố không phân biệt nội thành hay ngoại thành.
b) Khu vực II gồm: Thành phố trực thuộc Trung ương (trừ Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh) bao gồm tất cả các quận, huyện trực thuộc thành phố không phân biệt nội thành hay ngoại thành; thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã bao gồm tất cả các phường, xã thuộc thành phố, thị xã không phân biệt phường nội thành, nội thị hay xã ngoại thành, ngoại thị.
c) Khu vực III gồm: Các khu vực khác ngoài khu vực I và khu vực II quy định tại điểm a và điểm b Khoản này.
Cũng theo Thông tư 60, mức thu lệ phí cấp mới giấy chứng nhận đăng ký kèm theo biển số xe đối với ô tô chở người từ 9 chỗ trở xuống (bao gồm cả xe con pick-up) tại khu vực II (gồm TP Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ; các TP trực thuộc tỉnh và các thị xã) là 1 triệu đồng/lần/xe.
Tại khu vực III (các địa phương còn lại), mức phí 200.000 đồng/lần/xe cho lần đăng ký cấp mới. Cả khu vực II và III mức lệ phí đều không có thay đổi so với quy định hiện hành.
Đối với xe máy, theo Thông tư 60, lệ phí đăng ký, cấp biển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ tính theo giá trị xe và theo khu vực. Cụ thể, xe có giá trị trên 40 triệu đồng, mức lệ phí được quy định cứng là 4 triệu đồng (khu vực I); Khu vực II là 800.000 đồng/lần/xe; Khu vực III có mức là 150.000 đồng/lần/xe thay cho quy định hiện hành là 50.000 đồng/lần/xe.
Với xe máy có giá trị trên 15 triệu đồng đến 40 triệu đồng, mức lệ phí quy định cứng là 2 triệu đồng/lần/xe đối với khu vực I thay cho quy định hiện hành là mức thu trong khung từ 1-2 triệu đồng; Khu vực II giữ nguyên là 400.000 đồng/lần/xe; Khu vực III là 150.000 đồng/lần/xe thay cho quy định hiện nay là 50.000 đồng/lần/xe.
Với xe máy trị giá từ 15 triệu đồng trở xuống, mức thu lệ phí tại khu vực I là 1 triệu đồng/lần xe thay cho quy định hiện hành là thu trong khung từ 500.000 - 1.000.000 đồng/lần/xe; Khu vực II giữ nguyên là 200.000 đồng/lần/xe; Khu vực III có mức là 150.000 đồng/lần/xe thay cho quy định hiện hành là 50.000 đồng/lần/xe.
Thông tư nêu rõ, tổ chức, cá nhân có trụ sở, nơi cư trú ở khu vực nào thì nộp lệ phí cấp chứng nhận đăng ký, biển số phương tiện giao thông theo mức thu lệ phí quy định tương ứng với khu vực đó.
Đối với trường hợp cấp chứng nhận đăng ký, biển số xe ô tô trúng đấu giá cho xe mới, tổ chức, cá nhân trúng đấu giá nộp lệ phí cấp chứng nhận đăng ký, biển số phương tiện giao thông, như sau: Đăng ký cấp giấy chứng nhận, biển số tại khu vực I áp dụng mức thu lệ phí tại khu vực I; đăng ký cấp giấy chứng nhận, biển số tại khu vực II và khu vực III áp dụng mức thu lệ phí tại khu vực II.
Trị giá xe mô tô làm căn cứ áp dụng mức thu lệ phí cấp chứng nhận đăng ký, biển số phương tiện giao thông là giá tính lệ phí trước bạ tại thời điểm đăng ký.
Trước đó, Bộ Công an đã ban hành Thông tư 24/2023/TT-BCA quy định về cấp, thu hồi đăng ký, biển số xe cơ giới, trong đó cho phép đăng ký xe tại nơi tạm trú, thông tư có hiệu lực từ 15/8.
Thông tư 24 quy định hồ sơ, thủ tục cấp, thu hồi đăng ký, biển số xe cơ giới được quy định trong Luật Giao thông đường bộ, bao gồm: Đăng ký xe lần đầu, đăng ký sang tên, di chuyển xe, cấp đổi chứng nhận đăng ký xe, biển số xe...
Thông tư mới cho phép cá nhân, tổ chức đăng ký ô tô, xe máy tại nơi tạm trú thay vì chỉ đăng ký tại nơi thường trú như trước đây.
Tại khoản 2, điều 3 Thông tư 24/2023 có quy định nguyên tắc đăng ký xe: Chủ xe là tổ chức, cá nhân có trụ sở, nơi cư trú (nơi đăng ký thường trú, tạm trú) tại địa phương nào thì đăng ký xe tại cơ quan đăng ký xe thuộc địa phương đó; trừ trường hợp quy định tại khoản 14, điều 3 thông tư này.
Thông tư mới cũng nêu rõ cơ quan đăng ký xe gồm: Cục Cảnh sát giao thông; phòng Cảnh sát giao thông các tỉnh, thành phố; Công an cấp huyện và Công an cấp xã.
Thông tư quy định biển số xe được cấp và quản lý theo mã định danh của chủ xe. Biển số định danh là biển số xe được cấp và được quản lý theo mã định danh của chủ xe.
Biển số định danh phải đảm bảo có ký hiệu, series biển số, kích thước của chữ và số, màu biển số theo quy định về đăng ký xe.
Đối với chủ xe là người Việt Nam, biển số xe được quản lý theo số định danh cá nhân. Còn với chủ xe là người nước ngoài thì biển số xe được quản lý theo số định danh của người nước ngoài, do hệ thống định danh và xác thực điện tử xác lập, hoặc số thẻ thường trú, tạm trú.