Quy định mới về kiểm định xe cơ giới đường bộ
Ngày 22/3, Bộ trưởng Bộ GTVT đã ban hành Thông tư số 02/2023/TT-BGTVT về sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 16/2021/TT-BGTVT về kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ.
Thông tư số 02 sửa đổi 7 điều và 5 phụ lục trên 18 điều và 19 phụ lục so với Thông tư cũ; trong đó có 2 nội dung đáng chú ý.
Một là, Thông tư số 02 miễn kiểm định lần đầu đối với xe cơ giới chưa qua sử dụng và có năm sản xuất đến năm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận kiểm định dưới 2 năm (năm sản xuất cộng 1 năm) và có đủ hồ sơ hợp lệ; được cấp tem và giấy chứng nhận tại các trung tâm đăng kiểm mà không phải mang xe đến trình diện”.
Hai là, Thông tư số 02 điều chỉnh chu kỳ kiểm định đối với một số loại xe cơ giới.
Cụ thể, đối với ô tô chở người các loại đến 9 chỗ không kinh doanh vận tải:
Chu kỳ đầu tiên miễn kiểm định và tăng từ 30 tháng lên 36 tháng;
Thời gian sản xuất đến 7 năm thì chu kỳ tăng từ 18 tháng lên 24 tháng;
Thời gian sản xuất trên 7 năm đến 20 năm (trước đây là 12 năm) thì chu kỳ giữ nguyên 12 tháng;
Thời gian sản xuất trên 20 năm thì chu kỳ kiểm định giữ nguyên 6 tháng;
Đối với ô tô chở người các loại trên 9 chỗ
Chu kỳ đầu tiên miễn kiểm định và tăng từ 18 tháng lên 24 tháng;
Thời gian sản xuất đến 5 năm thì chu kỳ tăng từ 6 tháng lên 12 tháng;
Thời gian sản xuất trên 5 năm thì chu kỳ giữ nguyên 6 tháng;
Đối với nhóm ô tô tải các loại, ô tô đầu kéo có thời gian sản xuất từ 20 năm trở lên (kể cả ô tô tải, ô tô đầu kéo đã cải tạo thành ô tô chuyên dùng), ô tô tải được cải tạo chuyển đổi công năng từ ô tô chở người có thời gian sản xuất từ 15 năm trở lên được kéo dài chu kỳ kiểm định từ 3 tháng lên 6 tháng
Thông tư cũng điều chỉnh một số nội dung nhằm giảm thiểu thủ tục, chi phí và thời gian cho người dân và doanh nghiệp.
Thông tư sửa đổi Thông tư 16 đã hoàn thành và có hiệu lực bắt đầu từ ngày 22/3/2023.
Chậm nộp phạt, tài xế sẽ bị tính thêm "lãi ngày"
Quy định mới về nộp phạt hành chính sẽ khiến người vi phạm, trong đó có các tài xế vi phạm luật giao thông đường bộ, bắt đầu bị tính thêm lãi theo ngày nếu nộp tiền phạt chậm.
Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 18/2023/TT-BTC quy định về thủ tục nộp tiền phạt, bù trừ số tiền nộp phạt chênh lệch, biên lai thu tiền phạt và kinh phí từ ngân sách Nhà nước bảo đảm hoạt động của các lực lượng xử phạt vi phạm hành chính. Thông tư này chính thức có hiệu lực thi hành kể từ ngày 5/5/2023.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 5 của thông tư, mọi cá nhân, tổ chức chưa nộp tiền phạt thì sẽ bị cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt và cứ mỗi ngày chậm nộp phạt, cá nhân, tổ chức vi phạm phải nộp thêm 0,05% trên tổng số tiền phạt chưa nộp.
Thời hạn này thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại khoản 2 Điều 68 và khoản 1 Điều 73 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, trong vòng 10 ngày (bao gồm cả ngày lễ, ngày nghỉ), cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính phải chấp hành quyết định xử phạt kể từ ngày nhận quyết định xử phạt vi phạm hành chính; nếu thời hạn thi hạn ghi trong quyết định xử phạt nhiều hơn thì thực hiện theo thời hạn đó.
Ngoài ra, Thông tư số 18/2023/TT-BTC cũng nếu 2 trường hợp ngoại lệ không tính tiền chậm nộp phạt vi phạm hành chính khi người nộp phạt đang trong thời hạn hoãn thi hành quyết định xử phạt hoặc trong thời gian xem xét, quyết định giảm, miễn phần còn lại hoặc cho phép nộp tiền phạt nhiều lần.
Hình thức nộp phạt được quy định tại Khoản 2, Điều 4 của Thông tư số 18/2023/TT-BTC gồm 2 phương án: Nộp trực tiếp - xác định ngày nộp là ngày Kho bạc Nhà nước, hoặc ngân hàng thương mại, tổ chức cung ứng dịch vụ bưu chính công ích, hoặc người có thẩm quyền thu tiền phạt; và nộp tiền phạt bằng hình thức chuyển khoản thì xác định ngày nộp là ngày người nộp phạt nhận được thông báo giao dịch tiếp nhận khoản tiền nộp phạt thành công.
Trong trường hợp chuyển khoản, thông tin chuyển khoản khi nộp phạt phải có nội dung nộp phạt, số quyết định và ngày quyết định xử phạt cùng tên cơ quan của người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt.
Biển số định danh
Bộ Công an ban hành Thông tư 24/2023/TT-BCA có hiệu lực từ 15/8 quy định về cấp, thu hồi đăng ký, biển số xe cơ giới, trong đó quy định biển số xe được cấp và quản lý theo mã định danh của chủ xe (sau đây gọi là biển số định danh).
Biển số định danh là biển số có ký hiệu, seri biển số, kích thước của chữ và số, màu biển số theo quy định tại Thông tư này.
Đối với chủ xe là công dân Việt Nam thì biển số xe được quản lý theo số định danh cá nhân.
Trường hợp xe hết niên hạn sử dụng, hư hỏng hoặc chuyển quyền sở hữu xe thì biển số định danh của chủ xe được cơ quan đăng ký xe thu hồi và cấp lại khi chủ xe đăng ký cho xe khác thuộc quyền sở hữu của mình.
Số biển số định danh được giữ lại cho chủ xe trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày thu hồi; quá thời hạn nêu trên, nếu chủ xe chưa đăng ký thì số biển số định danh đó được chuyển vào kho biển số để đăng ký, cấp cho tổ chức, cá nhân theo quy định.
Trường hợp chủ xe chuyển trụ sở, nơi cư trú từ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương này sang tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khác thì được giữ lại biển số định danh đó (không phải đổi biển số xe).
Đấu giá biển số
Chính phủ đã ban hành Nghị định 39/2023/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều Nghị quyết số 73/2022/QH15 ngày 15/11/2022 của Quốc hội về thí điểm đấu giá biển số xe ô tô.
Người tham gia đấu giá là tổ chức, cá nhân người Việt Nam có đủ điều kiện tham gia đấu giá biển số xe ô tô theo quy định của Nghị định này và quy định khác của pháp luật có liên quan
Bộ trưởng Bộ Công an quyết định số lượng biển số xe ô tô đưa ra đấu giá tại mỗi phiên đấu giá, bao gồm biển số xe ô tô của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ký hiệu sê ri: A, B, C, D, E, F, G, H, K, L, M, N, P, S, T, U, V, X, Y, Z nền màu trắng, chữ, số màu đen chưa được đăng ký, dự kiến cấp mới, đang trong Hệ thống đăng ký, quản lý xe của Bộ Công an và bổ sung số lượng biển số xe ô tô cho Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp hết biển số xe ô tô để đăng ký khi chưa đến phiên đấu giá tiếp theo.
Bộ Công an chuyển danh sách biển số xe ô tô đưa ra đấu giá cho tổ chức đấu giá tài sản, đồng thời thông báo công khai danh sách, kế hoạch tổ chức đấu giá biển số xe ô tô trên cổng thông tin điện tử Bộ Công an, Trang thông tin điện tử Cục Cảnh sát giao thông, có đường dẫn đến Trang thông tin đấu giá trực tuyến của tổ chức đấu giá tài sản.
Tổ chức đấu giá tài sản thông báo công khai danh sách biển số xe ô tô đưa ra đấu giá trên cổng thông tin điện tử quốc gia về đấu giá tài sản, Trang thông tin đấu giá trực tuyến của tổ chức đấu giá tài sản và niêm yết tại trụ sở. Quy chế đấu giá phải được niêm yết, thông báo công khai trên Trang thông tin đấu giá trực tuyến, trụ sở của tổ chức đấu giá tài sản.
Thời gian thông báo công khai, niêm yết, Quy chế đấu giá, danh sách biển số xe ô tô đưa ra đấu giá ít nhất 30 ngày trước ngày tổ chức phiên đấu giá.
Bộ Tài chính đề xuất giảm thuế tiêu thụ đặc biệt ô tô điện và hybrid
Bộ Tài chính đang nghiên cứu sửa đổi Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, trong đó dự kiến đề xuất tiếp tục giảm thuế suất cho ô tô điện và hybrid.
Bộ Tài chính vừa hoàn thiện đề cương sửa đổi Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), trong đó dự kiến ô tô thân thiện môi trường là một trong những mặt hàng được điều chỉnh mạnh về cách mô tả hàng hoá cũng như thuế suất áp dụng. Đây sẽ là tin vui cho người tiêu dùng, các hãng ô tô điện và hybrid đã và đang sắp kinh doanh tại Việt Nam.
Cụ thể, Bộ Tài chính đề xuất định hướng sẽ áp dụng thuế suất TTĐB thấp hơn mức hiện hành cho các loại xe thân thiện với môi trường như xe thuần điện, xe kết hợp xăng- điện (xe hybrid). Mức thuế suất cụ thể sẽ được tính toán khi chủ trương sửa Luật được chấp thuận và sẽ thể hiện trong dự thảo Luật sửa đổi sau này.
Đầu năm 2022, thuế TTĐB cho ô tô điện chạy pin cũng đã có đợt điều chỉnh giảm mạnh. Theo Luật số 03/2022/QH15 sửa đổi 9 luật (Luật Đầu tư công, Luật đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư, Luật Nhà ở, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực, Luật Doanh nghiệp, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thi hành án dân sự) được Quốc hội thông qua ngày 11/1/2022, từ ngày 1/3/2022- 28/2/2027, ô tô điện chạy pin dưới 9 chỗ ngồi được giảm từ 15% xuống mức 3%; từ 10-16 chỗ ngồi và bán tải được giảm từ 10% xuống mức 2%; từ 16- 24 chỗ ngồi được giảm từ mức 5% xuống mức 1%.
Kể từ 1/3/2027, thuế TTĐB ô tô điện chạy pin dưới 9 chỗ ngồi tăng từ 3% lên mức 11%; loại xe từ 10-16 chỗ ngồi và bán tải sẽ tăng từ 2% lên 7%; từ 16- 24 chỗ ngồi tăng từ mức 1% lên 4%.
Đối với các loại xe ô tô chở người chạy điện khác, kể từ ngày 1/3/2022, xe từ 9 chỗ trở xuống có mức thuế suất 15%; xe từ 10 đến dưới 16 chỗ và bán tải áp dụng 10%; xe từ 16 đến dưới 24 chỗ áp dụng 5%.
Đối với xe hybrid, Luật hiện hành quy định còn chung chung: "Xe ô tô chạy bằng xăng kết hợp năng lượng điện, năng lượng sinh học, trong đó tỷ trọng xăng sử dụng không quá 70% số năng lượng sử dụng" áp dụng thuế suất thuế TTĐB " bằng 70% mức thuế suất áp dụng cho xe cùng loại,..."
Trong khi đó, trên thực tế, việc xác định tỷ trọng xăng/số năng lượng sử dụng lại chưa có quy định và hướng dẫn cụ thể. Điều này dẫn tới các loại xe hybrid như HEV (không có sạc ngoài) và PHEV (có sạc ngoài) vẫn đang chịu mức thuế TTĐB như xe chạy xăng dầu thông thường (mức thấp nhất là 35% cho xe có dung tích dưới 1.5 lít và cao nhất là 150% cho xe ô tô dung tích trên 6.0 lít).
Theo Bộ Tài chính, Luật thuế TTĐB cần sửa đổi bổ sung quy định rõ loại xe kết hợp xăng- điện là loại nạp điện bằng hệ thống sạc điện riêng (Plug-in hybrid). Ngoài xe chạy xăng kết hợp năng lượng điện, năng lượng sinh học, xe điện, còn có các loại xe sử dụng khí thiên nhiên cũng cần có chính sách ưu đãi thuế để khuyến khích sản xuất.
Tháng 8/2022, Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA) cũng đã kiến nghị Chính phủ xem xét giảm thuế tiêu thụ đặc biệt và lệ phí trước bạ với dòng xe hybird như HEV, PHEV để có sự chuyển đổi hài hoà sang xe thuần điện.